BỆNH TỰ KỶ - hocviensong

Latest

Ad Section

BANNER 728X90

Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2015

BỆNH TỰ KỶ

Tự kỷ là gì?

Rối loạn phổ tự kỷ (ASD) và bệnh tự kỷ là hai thuật ngữ được sử dụng để chỉ một nhóm các rối loạn phức tạp của sự phát triển não bộ. Những rối loạn này gây ra những khó khăn trong tương tác xã hội, giao tiếp bằng lời và không lời và hành vi lặp lại ở những mức độ khác nhau. Trong bảng hướng dẫn và tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần DSM -5 tháng 5/2013, tất cả các rối loạn tự kỷ đã được nhập vào thành một chẩn đoán chung của ASD. Trước đó, chúng được coi như những phân nhóm riêng biệt bao gồm: rối loạn tự kỷ, rối loạn tan rã thời thơ ấu, tự kỷ không điển hình (PDD-NOS) và hội chứng Asperger.
ASD có thể đi kèm với các khuyết tật trí tuệ, khó khăn trong việc phối hợp vận động, sự chú ý và các vấn đề sức khỏe thể chất như giấc ngủ và rối loạn tiêu hóa. Một số trẻ tự kỷ khá nổi trội trong các kỹ năng liên quan tới thị giác, âm nhạc, toán học và nghệ thuật.
Tự kỷ có nguồn gốc trong sự phát triển rất sớm của não bộ. Tuy nhiên, những dấu hiệu và triệu chứng rõ ràng nhất của tự kỷ thường xuất hiện khi trẻ nằm trong độ tuổi từ 2 đến 3 tuổi.
Hội chứng tự kỷ có phổ biến không?
Theo thống kê từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) thì cứ 68 trẻ ở Mỹ thì sẽ có 1 trẻ bị tự kỷ. Tỷ lệ này tăng gấp 10 lần trong vòng 40 năm qua. Sự gia tăng tỷ lệ này một phần được lý giải bởi sự cải thiện các điều kiện chẩn đoán và nhận thức của các bậc cha mẹ về rối loạn phổ tự kỷ. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng, số lượng bé trai mắc hội chứng này cao gấp 4 đến 5 lần so với các bé gái. Ước tính có khoảng 1 trong số 42 bé trai và 1 trong 189 bé gái được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ ở Hoa Kỳ.
ASD ảnh hưởng đến hơn 3 triệu người ở Mỹ và hàng chục triệu người trên toàn thế giới. Hơn nữa, số liệu thống kê của chính phủ cho thấy rằng số lượng người mắc tự kỷ đã tăng 10-17 % mỗi năm trong những năm gần đây. Hiện vẫn chưa có lời giải thích chính xác nhất cho sự gia tăng liên tục này, mặc dù sự cải thiện trong việc chẩn đoán và ảnh hưởng môi trường là hai lý do thường được đưa ra để xem xét nhất.

Nguyên nhân của tự kỷ là gì?
Trong những năm qua, các nhà khoa học đã xác định được một số thay đổi về gen hiếm gặp, hoặc đột biến có liên quan tới bệnh tự kỷ. Trong hầu hết các trường hợp được chẩn đoán tự kỷ đều cho thấy có sự kết hợp của các gen có nguy cơ tự kỷ và các yếu tố môi trường làm ảnh hưởng đến sự phát triển sớm của não bộ.
Bên cạnh yếu tố di truyền thì một số yếu tố không mang tính di truyền và môi trường có khả năng làm tăng thêm nguy cơ mắc bệnh của một đứa trẻ. Bằng chứng rõ ràng nhất về các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tự kỷ là sự xuất hiện của các sự kiện trước và trong khi sinh. Chúng bao gồm tuổi tác của cha mẹ tại thời điểm thụ thai, bệnh tật của người mẹ trong thời kỳ mang thai và khó khăn nhất định trong khi sinh, đặc biệt là những yếu tố liên quan đến sự thiếu hụt oxy cho não của bé. Điều quan trọng cha mẹ nên nhớ rằng, bản thân những yếu tố này không gây ra bệnh tự kỷ. Mà chỉ khi kết hợp với các yếu tố nguy cơ di truyền, thì sẽ làm tăng rủi ro mắc bệnh cho một đứa trẻ.
Một nghiên cứu cho thấy rằng, người mẹ có thể giảm nguy cơ mắc tự kỷ của con mình bằng cách bổ sung các vitamin có chứa axit folic và / hoặc ăn một chế độ ăn uống giàu axit folic (ít nhất 600 mcg một ngày) trong suốt những tháng trước và sau thụ thai.
Các nhà khoa học cũng đang tiến hành nghiên cứu để xem xét vai trò của hệ miễn dịch ở trẻ tự kỷ. Hy vọng kết quả đạt được sẽ giúp người tự kỷ có thể cải thiện cuộc sống của mình và nâng cao kết quả điều trị.

Sẽ ra sao nếu con bạn không may bị tự kỷ?
Mỗi cá nhân tự kỷ là duy nhất, không ai giống ai. Nhiều người mắc hội chứng phổ tự kỷ có những khả năng đặc biệt về âm nhạc, thị giác, khả năng học tập. Khoảng 40 % số người bị tự kỷ có khả năng trí tuệ trên mức trung bình. Thật vậy, nhiều người mắc tự kỷ tự hào và xứng đáng với những khả năng đặc biệt của họ. Khác với chứng tự kỷ có khuyết tật đáng kể và không thể sống độc lập, khoảng 25 phần % số trẻ mắc tự kỷ không thể sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp nhưng trẻ hoàn toàn có thể học cách giao tiếp bằng cách sử dụng các phương tiện khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét